nghệ thuật bài văn tế nghĩa sĩ cần giuộc

Viết bài làm văn số 2: Nghị luận văn học; Tuần 6; Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Phần 1: Tác giả Nguyễn Đình Chiểu; Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Phần 2: Tác phẩm; Thực hành về thành ngữ, điển cố; Tuần 7; Chiếu cầu hiền (Ngô Thì Nhậm) Xin lập khoa luật (Nguyễn Trường Tộ) Với bài văn tế này, lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc có một tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân tương xứng với phẩm chất vốn có ngoài đời của họ. Ở đây là người nông dân nghĩa quân chống giặc, cứu nước. Văn tế nghĩa sĩ cần Phân tích bài văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - bài 2. Văn tế nghĩa sĩ Cẩn Giuộc như một "bức tượng đài nghệ thuật sừng sững hiên ngang" mà lạ thay gót thời gian không hề tàn phá nổi. Nguyễn Đình Chiểu - con người ấy đã đi xa chúng ta từ lâu lắm rồi nhưng những Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu là tiếng khóc bi tráng cho một thời kì lịch sử đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc, là bức tượng đài bất tử về những người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc đã dũng cảm chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc, Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc cũng là một thành tựu Trọn bộ câu hỏi ôn tập về bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc Ngữ văn lớp 11 chọn lọc, cực hay. Với bộ câu hỏi bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc này, học sinh sẽ ôn tập, nắm vững kiến thức môn Ngữ văn 11 để đạt điểm cao trong các bài thi môn Ngữ văn 11. Câu hỏi: Nét Rencontre Avec Une Star Disney Channel. Nguyễn Đình Chiểu viết “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” trong khoảng thời gian ông tản cư về quê vợ ở Thanh Ba - cần Giuộc. Ngay sau khi được phổ biến, bài văn đã có tiếng vang rất lớn, nhất là trong lòng quân chúng nhân dân. Bởi ngoài việc được xây dựng hoàn toàn trên cơ sở người thật, việc thật của trận tập kích đồn giặc ở cần Giuộc đêm rằm 16-17/1861, bài văn tế còn bộc lộ rõ những nét độc đáo về mặt nội dung tư tưởng và nghệ thuật. Chính vì vậy, nó có giá trị mở đầu cho dòng văn học yêu nước chống Pháp nửa sau thế kỷ XIX và là chứng nhân cho cả một giai đoạn lịch sử đau thương, khổ nhục nhưng vĩ đại” của dân tộc. Cốt lõi của một bài văn là nội dung của nó. Điều đó đương nhiên ta không cần bàn cãi. Nhưng thiết nghĩ đôi lúc ta cũng nên dừng lại ở tựa đề một khi nó được ra đời tuyệt đối không do sự ngẫu nhiên trong cách lựa chọn của tác giả có giả thiết cho rằng đây là nhan đề do nhân dân lưu truyền mãi mà thành. Cũng như ở bài văn này, tại sao Nguyễn Đình Chiểu lại gọi nó là “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” mà không là “Văn tế vong hồn dân mộ nghĩa” hay “Văn tế nghĩa dân tử trận Cần Giuộc” như xưa nay vẫn lưu truyền? Có điều gì khác biệt giữa “dân mộ nghĩa”, “nghĩa dân” và “nghĩa sĩ”? Rõ ràng, từ “nông dân” mà trở thành “dân mộ nghĩa” đã là mọt sự thay đổi song từ “dân mộ nghĩa” trở thành “nghĩa dẫn” rồi từ “nghĩa dân” hóa thân thành “nghĩa sĩ” thì đúng là cả một quá trình người nông dân “lột xác” thực sự. Đằng này, tác giả lại không ngần ngại đưa họ từ vị trí thấp nhất là “nông dân” lên vị trí cao nhất “nghĩa sĩ”. Nếu đứng trên quan điểm của thế kỷ XX để nhìn nhận thì sự thay đổi này tạm thời ta có thể chấp nhận. Nhưng đây quả là vấn đề không thể chấp nhận ở thế kỷ XIX, nhất là ở một nhà Nho như Nguyễn Đình Chiểu khác nhà thơ Nguyên Đình Chiểu. Chưa bao giờ và có lẽ trước thời cụ Đồ, trong ý thức hệ của các nhà Nho phong kiến, người nông dân có cái vinh dự được gọi là “nghĩa sĩ”. Sinh ra và lớn lên từ trong lòng của chế độ phong kiến, đã từng qua cửa Khổng – sân Trình thì chắc chắn Nguyễn Đình Chiểu đã thuộc nằm lòng từ thủa còn ê a “Ngũ kinh”, “Tứ thư”, một nguyên lí gần như là cơ bản của Khổng giáo tiểu nhân người dân, nô lệ … không thể lẫn lộn với quân tử những người có địa vị, học rộng, biết nhiều. Nói cách khác, muốn là người “nghĩa” người “sĩ” thì nhất thiết anh phải thuộc tầng lớp quân tử. Còn nhớ “Hịch tướng sĩ” áng văn có sức mạnh làm lay động lòng người, song suốt từ đầu đến cuối, giữa niềm căm phẫn ứ đầy, trong vị mặn của dòng nước mắt của một vị chủ soái ta vẫn nghe cách xưng hô của Trần Quốc Tuấn “ta” và “các người” phân biệt rạch ròi hai giai tầng trong một xã hội. Thế thì cái gì, cái gì đã buộc Nguyễn Đình Chiểu xoay chiều đổi hướng về mặt tư tưởng, cái tư tưởng ngỡ như không phương tháo gỡ khi mà nó đã trở thành nhận thức của một nhà nho? Đó chính là thời cuộc là thực tế đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ xung quanh ông; là mắt thấy, tai nghe. Nguyễn Đình Chiểu đã đặt niềm tin cho triều đình quá nhiều và ông cũng đã thất vọng quá nhiều. Những kẻ mà ông đã hơn một lần lầm tưởng là những “trang dẹp loạn” “Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng? — Chạy Tây, là “chúa xuân” “Chúa xuân đâu hỡi có hay không?” – Xúc cảnh mỉa mai thay, thực ra chỉ toàn là lũ người chỉ sống cho cá nhân mình; một lũ người xiểm nịnh, giành giật chức tước và đục khoét dân nghèo. Năm 1862, Tự Đức đầu hàng, nỡ cắt ba tỉnh miền đồng cho giặc, Nguyễn Đình Chiểu đã tỏ; năm 1867, cắt luôn ba tỉnh miền tây, ông cũng đã tường. Và, một thực tế nhãn tiền cũng là một thực tế mà cụ Đồ không thể ngờ tới những người nông dân lại chính là những chủ nhân ông của đất nước. Họ sẵn sàng hi sinh hạnh phúc cá nhân, sẵn sàng đổ máu cho non sông, họ chẳng đáng là người “nghĩa” hay sao? Họ không cần có tri thức, không cần học rộng biết nhiều kinh sách thánh hiền nhưng họ đã hiểu đước vận mệnh sống còn của đất nước và hiểu được trách nhiệm của mình thì họ đúng là người “sĩ” quá đi chứ! Đã từng lặn lội với nhân dân, gắn. Bó với nông dân như máu mủ nhưng mãi đến hôm nay Nguyễn Đĩnh Chiểu mới phát hiện được sức mạnh tiềm tàng ở họ và vẫn không tránh khỏi bàng hoàng. Có ai tin được những kẻ đầu tắt mặt tối, cả một đời chưa rời khỏi lũy tre làng “cui cút làm ăn, riêng lo nghèo khó” ấy thế mà khi cần, mới sáng mai đây, chân còn đạp bùn, tay còn thơm mùi mạ mới hiên ngang đi vào trận đánh, chiến đấu như một đội quân nhà trời và một tinh thần vô tư chưa từng có “Chi nhọc quan quản gióng trổng kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xồ cửa xông vào, liều mình như chẳng có”. Đây là tư tưởng chủ yếu cũng là tư tưởng tích cực nhất mà Nguyễn Đình Chiểu đã vượt trội so với các nhà nho cùng thời. Chính nó đã tạo nên giá trị to lớn của áng văn tế. Mãi gần một trăm năm sau, Nam Cao tầng lớp tri thức đi theo cách mạng, đã từng sống với những người như Lão Hạc, Chí Phèo mới “ngã ngửa người ra” trước sức mạnh như nước lũ của quần chúng nhân dân “Đôi mắt” – Nam Cao. Thấy được khoảng cách thời gian ấy, ta mới thấy hết giá trị nội dung tư tưởng của “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”. Nó mở đường cho hàng loạt những hình tượng anh hùng “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” sau này như anh hùng Núp “Đất nước đứng lên” – Nguyên Ngọc, chị út Tịch “Người mẹ cầm súng” – Nguyễn Thi, anh giải phóng quân Hoan hô anh giải phóng quân Kính chào anh, con người đẹp nhất! Lịch sử hôn anh, chàng trai chân đất Tố Hữu Ta còn nhớ, khi còn là một chàng trai ở độ tuổi hai mươi, “tim đang dào dạt máu” say mê với khát vọng và háo hức với lí tưởng cách mạng, Tố Hữu đã nghe trên đường đi đày giữa đèo cao núi thẳm Gà đâu gáy động im lìm, Mơ mơ thấy xóm tranh chìm trong mây Đến khi được nhào nặn lại qua kháng chiến, khi đi hẳn vào thực tế của quần chúng cách mạng, cùng anh vệ pháo, cũng qua đèo núi anh hát “… Ta bế ta bồng Voi lên tạ vác Vại ta vai sắt …” Rõ ràng chẳng cần tính ý lắm ta càng nhận ra giọng thơ giản dị sau của Tố Hữu! Nó gần gũi, gắn bó với ta hơn. Đây có phải là sự biến chuyển phong cách nghệ thuật thông qua sự thay đổi nội dung tư tưởng? Nếu đúng thế thì hình thức nghệ thuật trong bài văn tế của Nguyễn Đình Chiểu, phải chăng cũng đã có sự biến đổi? Phải! Trước kia, tiếp xúc với truyện thơ Lục Vân Tiên, không ít người đã phải thở dài với câu “Vợ Tiên là Trực chị dâu” thì nay với Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc”, chắc hẳn ta hoàn toàn bị thuyết phục bởi văn phong nghệ thuật của ông. Ở đây, có một điều thực lạ lùng, độc đáo là giữa cái bi ai, trầm buồn của một áng văn tế, trong cái im lặng gần như tuyệt đối của buổi lễ truy điệu, trước hai mươi mốt nấm quan tài của hai mươi mốt người anh hùng chân đất cần Giuộc, giữa không khí nghiêm trang dường như chết lặng ấy, sau tiếng nấc người ta lại nghe trỗi dậy một bản anh hùng ca Iliat hừng hực khí thế của thời đại. Có thể nói, từ trước đến nay chưa có một bài văn tí nào đạt được khả năng kì diệu này. Hãy nghe “Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu …” Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hộ Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ni hồn kinh … tàu thiếc, tàu đồng súng nổ…” Chất giọng, tiết tấu khi đường hoàng, sang sảng lúc dồn dập, thôi thúc, có phải ta đã nghe qua một lần? Đúng, ta đã gặp ở “Bình Ngô đại cáo”, một áng thiên cổ hùng văn năm trăm năm trước. Song, cần nhớ đây lại là một bài văn tế. Một bài văn tế mà mang âm hưởng anh hùng ca chiến thắng, nó làm xao động, làm nức lòng người ta thì quả đúng như đồng chí Phạm Vãn Đồng đã nhận định Nếu “Bình Ngô đại cáo” là bản anh hùng ca chiến thắng thì “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ” là bản anh hùng ca về những người anh hừng thất thế nhưng vẫn hiên ngang. Nó là nỗi đau riêng hòa cùng nỗi đau chung trong số hai mươi mốt nghĩa sĩ đã hi sinh, có em ruột của Nguyễn Đình Chiểu là Nguyễn Đình Tựu, nó là “tiếng khóc vĩ đại” để gần tám mươi năm sau òa vỡ thành nụ cười tươi thắm ngày Cách mạng tháng Tám 1945 thành công. Nhưng thành công nghệ thuật trong “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” không chỉ dừng lại ở âm hưởng chung mà còn ở cái tài xây dựng hình tượng nhân vật của tác giả. Một tác phẩm văn học muốn trở nên có phong cách thì nhất thiết phải có tính cá thể. Do vậy nhân vật trong tác phẩm phải là nhân vật có cá tính ghen thì có nhiều cách ghen nhưng ghen mà vẫn “cười nói tỉnh say” thì chỉ mỗi Hoạn Thư “Kiều” — Nguyễn Du, say thì có nhiều cách nhưng say đến nỗi chửi cả những ai không chửi nhau với mình thì chỉ riêng Chí Phèo “Chí Phèo” – Nam Cao. Song, đó lại là những vật cá thể còn ở đây nhân vật của Nguyễn Đình Chiểu là nhân vật tập thể hai mươi mốt nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận công kích đồn Cần Giuộc. Với cái khó khăn này, chỉ cần sơ suất một chút thôi, các nhân vật của người cầm bút có lẽ sẽ dễ dàng bị rơi vào dạng trừu tường ngay. Vậy mà, đọc bài văn tế, trước mắt ta lại là một tập thể nhân vật anh hùng cụ thể, thống nhất. Họ cùng là những nông dân chân chất “cun cút làm ăn, riêng lo nghèo khó” cùng một lòng căm thù quân cựớp nước “mắt xanh, mũi lõ” mang tính bản năng ban đầu, đến độ “muốn tới ăn gan”, “muốn ra cắn cổ” và một ý thức thù nhà nợ nước mang nặng cá tính hơn về sau. Nhưng cơ bản và trên hết là họ cùng một lòng dũng cảm, chiến đấu trên tinh thần hoàn toàn tự nguyện, tự giác “Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình … Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lưới tới, coi giặc cũng như không …” Chính tinh thần chiến đấu, chính lòng dũng cảm tuyệt vời của họ đã tạo nên âm hưởng anh hùng ca cho toàn bài và tạo nên đêm rằm tháng mười một năm Tân Dậu ấy cái bi thương mà oai dũng của trận cần Giuộc. Đây là nét độc đáo, là thành công lớn nhất về phương diện nghệ thuật của Nguyễn Đình Chiểu trong bài văn. Bên cạnh đó, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” còn nổi rõ hai câu so sánh mang đậm chất Đồ Chiểu. Nó toát lên nét mới lạ, một phong cách nghệ thuật riêng chỉ có ở tác giả, nó không lẫn lộn với bất cữ một ai thứ nhất “Trông tin quan như trời hạn trông mưa” thứ hai “Ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”. Hai so sánh, hai cảm nhận gần như chỉ bằng trực giác, nó thuộc về tiềm năng của ý thức. Câu văn viết ra cực kì giản dị, giản dị tới mức không thể nào giản dị hơn. Song, cái điều bình thường ấy, cái trạng thái tâm lí ngỡ như là đương nhiên ấy không phải bất cứ ai cũng nhận thấy và phát hiện được. Mới hay, trước khi cầm bút để trở thành một nhà văn, Nguyễn Đình Chiểu đã là một nông dân tự bao giờ. Đúng! Chỉ có anh nông dân kia, một trưa bước ra khỏi căn nhà tranh, che tay nheo mắt nhìn trời mà nói bâng quơ ”Trời hôm nay lại nắng, lúa thóc lại chết toi chết tiệt cả rồi!” Và chỉ có anh nông dân kia một sớm ra thăm đồng, chặc lưỡi mà rằng “Quái lạ! Cái giống cỏ này, tốn công mãi mà vẫn không xong”. Phải thâm nhập vào tận cùng gốc rễ tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân thì Nguyễn Đình Chiểu mới có được hai câu so sánh rặt nông dân đến thế. Chung quy, những nét độc đáo về nội dung tư tưởng và nghệ thuật trong bài văn tế của Nguyễn Đình Chiểu đều xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước. Nó là một thứ đạo mà đối với ông sau khi được mở rộng bình diện qua “Lục Vân Tiên”, và sau này qua “Ngư tiều y thuật vấn đáp”, nó nâng lên thành một tiêu chuẩn mới ai yêu nước người ấy tất có đạo. “Vãn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” có thể nói đã đánh dấu một bước ngoặt mới trong từng chặng đường trong văn nghiệp Nguyễn Đình Chiểu, trở thành “tượng đài nghệ thuật” của nền văn học Việt Nam nhờ vào một bước phát triển mới về nội dung tư tưởng và nghệ thuật của tác giả. Và cuối cùng, ta có thể chốt lại như SGK – Văn 11 “Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc xứng đáng được coi là một trong những kiệt tác của văn chương Việt Nam”. TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN BỘ MÔN NGỮ VĂN PHAN CẨM THU MSSV 6106431 GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT TRONG TÁC PHẨM VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU Luận văn tốt nghiệp đại học Ngành Ngữ Văn Cán bộ hướng dẫn ThS. Gv. BÙI THỊ THÚY MINH Cần Thơ, năm 2013 ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 2. Lịch sử nghiên cứu 3. Mục đích nghiên cứu 4. Phạm vi nghiên cứu 5. Phương pháp nghiên cứu PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG Vài nét về tác giả Nguyễn Đình Chiểu Về cuộc đời Về sự nghiệp văn chương Quá trình sáng tác Nội dung thơ văn Đề cao lý tưởng đạo đức, nhân nghĩa Thể hiện lòng yêu nước, thương dân Vài Nghệ thuật thơ văn nét về tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc Hoàn cảnh sáng tác Văn bản Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc và một số dị bản Vài nét về thể loại văn tế Khái niệm Phân loại Phân loại theo văn tự Phân loại theo nội dung Bố cục Giọng điệu CHƯƠNG 2 GIÁ TRỊ NỘI DUNG TRONG TÁC PHẨM VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU Ca ngợi phẩm chất anh hùng của người nghĩa sĩ nông dân Bày tỏ sự xót thương trước vong linh của những người nghĩa sĩ Khẳng định tư tưởng yêu nước, thương dân của Đồ Chiểu Bài học đắt giá đối với những người đang sống CHƯƠNG 3 GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT TRONG TÁC PHẨM VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU Hình tượng nhân vật độc đáo Ngôn ngữ bình dị đậm đà bản sắc Nam Bộ Giọng văn thống thiết bi ai nhưng đầy vẻ hào hùng PHẦN KẾT LUẬN PHỤ LỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ lớn, một danh nhân văn hóa lớn của dân tộc. Với lòng yêu nước, thương dân, Nguyễn Đình Chiểu nguyện cống hiến cả cuộc đời mình lo cho dân cho nước. Tuy cuộc đời của ông phải trải qua nhiều thăng trầm, phải sống trong cảnh thiếu thốn, gian khổ và bệnh tật nhưng ở Nguyễn Đình Chiểu lại toát lên một con người có tâm hồn thanh cao trong sáng, luôn luôn lạc quan yêu đời. Ông am giỏi cả ba lĩnh vực dạy học, làm thuốc và sáng tác thơ văn. Ở lĩnh vực nào Nguyễn Đình Chiểu cũng dốc hết tâm nguyện đem chí bình sinh để thực thi một đạo lớn đó là đạo làm người, một nghĩa lớn đó là nghĩa phó chính trừ tà. Ánh sáng của đôi mắt không còn nhưng ánh sáng của chân lý vì một lẽ sống cao đẹp đã soi sáng và dẫn đường trong ông. Cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu xứng đáng là một tấm gương sáng về tinh thần làm việc kiên cường và khí tiết yêu nước bất khuất. Tuy không thể trực tiếp cầm súng chiến đấu nhưng bằng ngòi bút tài ba cùng với tấm lòng yêu nước nồng nàn, Nguyễn Đình Chiểu đã biến nó thành một vũ khí sắc bén đâm thẳng vào “mấy thằng gian” - vào bọn thực dân cướp nước và bọn tay sai bán nước “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà” Có lẽ vì sự ý thức được vai trò và sức mạnh của thơ văn đối với đời mà Nguyễn Đình Chiểu luôn hướng tác phẩm của mình về phía “nghệ thuật vị nhân sinh”. Ngoài việc truyền bá tư tưởng đạo lý làm người, thơ văn của yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, cho ta thấy rõ quá trình chiến đấu anh dũng và hào hùng của dân tộc ta trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Nó nung nấu chí căm thù giặc và bọn tay sai lên đến cực độ. Và hơn thế nữa, nó đã cháy lên ngọn lửa yêu nước của quân và dân ta. Nó kích thích và cổ vũ tinh thần chiến đấu quên mình để đổi lấy sự sống còn cho tổ quốc. Chính vì thế mà thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu đã thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước, và cái chủ nghĩa ấy đã đi sâu vào trong lòng người Việt Nam không cần một lời giải thích. Một trong những tác phẩm đã 1 dệt nên chủ nghĩa yêu nước ấy và làm cho nó vang mãi đến tận bây giờ không thể không kể đến “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”. Có thể nói đây là một kiệt tác của nhân loại. Nó đánh dấu cột mốc quan trọng cho một thời kì “đau thương nhưng vĩ đại” , là “khúc ca về người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang” của dân tộc ta, là bức tượng đài bất tử về những người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc đã dũng cảm chiến đấu hi sinh vì tổ quốc. Do đó, trước tiên là vì sức ảnh hưởng lớn của tác phẩm - tác phẩm tạo nên những giá trị vô cùng cao đẹp, sau nữa là vì lòng yêu qúy và kính trọng của bản thân trước một nhà thơ vĩ đại của dân tộc. Cũng như vì sự say mê học hỏi của bản thân, thích khám phá tìm những cái hay cái đẹp, cái đã làm nên những giá trị bất hủ khiến biết bao thế hệ mãi vẫn còn gìn giữ và nhắc đến. Chính vì thế mà chúng tôi đã quyết định chọn đề tài “Giá trị nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu” để tôn vinh đề cao những giá trị cao đẹp đó. Bên canh đó, nhân danh là một người con miền Nam, một người con của dân tộc Việt Nam anh hùng, chọn đề tài này chúng tôi muốn một lần nữa tưởng nhớ lại công lao mà các nghĩa sĩ đã hi sinh vì sự độc lập tự do của đất nước. Công lao to lớn đó nguyện mãi khắc ghi và sẽ mãi là tấm gương về tinh thần yêu nước soi sáng thế hệ của chúng tôi và các thế hệ sau. 2. Lịch sử nghiên cứu Đã có không biết bao nhiêu lời ngợi khen được viết về Nguyễn Đình Chiểu. Tuy vậy, nói mãi vẫn không hết, các thế hệ sau và sau nữa vẫn sẽ mãi nhắc đến tên người. Đồ Chiểu - cái tên nghe thân thương và thật gần gũi làm sao, cái tên đã làm nên một vì sao sáng trên bầu trời của dân tộc. Vì sao ấy sáng nghìn thu và sẽ không bao giờ vắng bóng. Cuộc đời và sự nghiệp văn chương của người đã tạo nên những giá trị vô cùng cao đẹp, là bài học đắt giá, là tấm gương sáng ngời, soi sáng và dẫn đường cho các thế hệ sau. Hơn nữa, đó cũng là nguồn tài liệu vô cùng quí báo để các nhà ngiên cứu tìm hiểu và khám phá ở nhiều góc độ từ một ông đồ mù luôn giữ tâm hồn thanh tao, lạc quan vì lẽ sống cao đẹp, đến một nhà thơ yêu nước, một người thầy thuốc thương dân như từ mẫu. Dù đứng ở cương vị nào Nguyễn Đình Chiểu cũng nguyện dốc cả cuộc đời mình để lo cho dân cho nước, ông xứng đáng là một nhà văn hóa lớn của dân tộc ta. 2 Qua lượng tác phẩm ông đã để lại, tuy không nhiều nhưng sức ảnh hưởng của nó là rất lớn. Một trong những tác phẩm đó phải kể đến “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”_ tác phẩm đánh dấu cột móc quan trọng cho một thời kì lịch sử hào hùng của dân tộc ta. Đã có rất nhiều bài viết, những công trình nghiên cứu liên quan đến Nguyễn Đình Chiểu ở nhiều lĩnh vực khác nhau, nhằm phát hiện ra cái hay cái đẹp, cái đã làm nên những giá trị lớn trong tác phẩm cũng như để khẳng định cái phẩm chất cao quý, một tâm hồn thanh cao của một Đồ Chiểu sống hết lòng vì dân, vì nước. Chúng tôi xin điểm qua một số công trình nghiên cứu tiêu biểu có liên quan đến tác giả cũng như tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc Trước tiên chúng tôi xin nhắc lại bài viết “Nguyễn Đình Chiểu – ngôi sao sáng trong nền văn nghệ dân tộc” – Bài viết mà mỗi dòng đều thấm nhuần tâm huyết và tầm nhìn của thời đại chúng ta đối với con người và sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu – Chủ tịch Phạm Văn Đồng nhận xét “…Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu, một phần lớn là những bài văn tế, ca ngợi những người anh hùng suốt đời tận trung với nước và than khóc những người liệt sĩ đã trọn nghĩa với dân. Ngòi bút nghĩa là tâm hồn trung nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu, đã diễn tả thật sinh động và não nùng cảm tình của dân tộc đối với người chiến sĩ nghĩa quân, vốn là người nông dân, xưa kia chỉ quen cày cuốc, bỗng chốc trở thành người anh hùng cứu nước” [16 ; Bên cạnh đó, Chủ tịch Phạm Văn Đồng đã đặt bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc bên cạnh bài Bình Ngô đại cáo - áng “Thiên cổ hùng văn” của dân tộc “Hai bài văn hai cảnh ngộ, hai thời buổi, nhưng một dân tộc. Hịch của Nguyễn Trãi là khúc ca khải hoàn, ca ngợi những chiến công oanh liệt chưa từng thấy, biểu dương chiến thắng làm rạng ngời nước nhà. Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là khúc ca những người anh hùng thất thế, nhưng vẫn hiên ngang Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc…muôn kiếp nguyền được trả thù kia…” [16 ; tr. 88]. Quyển “Nguyễn Đình Chiểu tác phẩm và lời bình” đã giới thiệu một số tác phẩm tiêu biểu và trích dẫn các bài nghiên cứu phê bình về thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu ở các khía cạnh khác nhau. Bài viết của ĐặngThai Mai có nhận định “Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu là khúc ca hùng tráng của phong trào yêu nước chống bọn xâm lược Pháp ngay từ buổi đầu chúng mới đặt chân lên xâm lược đất nước Việt Nam. [16; 3 Cũng trong quyển sách trên, Trần Thanh Mại trong bài viết “Nguyễn Đình Chiểu lá cờ đầu tiên của thơ văn yêu nước thời kì cận đại” viết “Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu mang nhiều giá trị hiện thực, tràn đầy tính nhân dân và tính dân tộc. Nó phản ánh khí thế quật cường bất khuất của dân tộc ta khoảng nữa sau thế kỉ XIX. Cả một thời đại đau thương và oanh liệt đã truyền hơi thở của nó vào các hịch, các văn tế và thơ điếu của Nguyễn Đình Chiểu, tiếp cho những áng thơ văn này một sức sống sôi sục, nhờ đó có một tác dụng động viên tuyên truyền mãnh liệt. [16; Quyển “Nguyễn Đình Chiểu tấm gương yêu nước và lao động nghệ thuật, kỉ niệm lần thứ 150 năm ngày sinh của nhà thơ 1822 – 1972”. Trong quyển sách này có Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc kỉ niệm ngày sinh Nguyễn Đình Chiểu; Tiểu sử Nguyễn Đình Chiểu; diễn văn của Hà Huy Giáp “Bài học sống chiến đấu và sáng tạo nghệ thuật của nhà thơ lớn Nguyễn Đình Chiểu” đọc trong lễ kỉ niệm lần thứ 150 ngày sinh Nguyễn Đình Chiểu; bài viết của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng và các bài nghiên cứu phê bình thơ văn Nguyễn Đình Chiểu xoay quanh vấn đề “Nguyễn Đình Chiểu tấm gương yêu nước và lao động nghệ thuật”. Trần Thanh Mại có nhận định “Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu khi thì hào hùng cảm khái, khi thì tha thiết lâm li, nhiều đoạn uyển chuyển, du dương, nhiều đoạn lại sôi nổi mạnh mẽ. So với giai đoạn trước xâm lăng, rõ ràng Nguyễn Đình Chiểu có một bước tiến mới về nghệ thuật, điều này thể hiện bước tiến mới của nhà thơ về tư tưởng” [20; Quyển “Nguyễn Đình Chiểu về tác gia và tác phẩm” do Nguyễn Ngọc Thiện tuyển chọn và giới thiệu, ngoài việc giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Nguyễn Đình Chiểu, bên cạnh đó còn tập hợp rất nhiều bài viết có giá trị. Nguyễn Quang Thắng trong bài Nguyễn Đình Chiểu và các bài văn tế “lòng yêu nước thiết tha nồng nàn ấy không phải là tình cảm thông thường của một con người nhiều tình cảm. Mà nó xuất phát từ lòng yêu mến nước tổ, dòng giống ; tự hào về lịch sử lâu đời của dân tộc. Cảm tình ấy được thoát ra từ cái thực tại đau thương trước thảm họa của nước nhà. Bằng những tác phẩm dài hơi Lục Vân Tiên, Ngư Tiều y thuật vấn đáp đến những bài văn tế lâm ly, thống thiết nhưng rất hùng dũng, nguyễn Đình Chiểu đã nói lên đầy đủ tiếng nói của mình”[17; Bên 4 cạnh đó ông cũng đã chỉ ra “Các bài văn tế của Nguyễn Đình Chiểu có một giá trị rất lớn, vì nó xuất phát từ tính dân tộc, lòng yêu mến giống nồi”. Quyển “Đến với thơ Nguyễn Đình Chiểu”, quyển sách cũng tập hợp rất nhiều bài viết có giá trị, trong đó Mai Quốc Liên với bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – khúc ca về người anh hùng nông dân cứu nước” đã cảm nhận một cách sâu sắc về nội dung của bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc và ông đã nhấn mạnh “Trong nghiên cứu về sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu, chúng ta cần dành một chổ thích đáng cho áng văn này, áng văn là đỉnh cao, là tiêu biểu cho sự nghiệp thơ văn Nguyễn Đình Chiểu” [3; Có thể nói đây là bài viết đã chỉ ra được những đóng góp mà Nguyễn Đình Chiếu đã thể hiện trong bài văn tế, chỉ ra được những điểm tương đồng và khác biệt so với nhứng tác phẩm đã làm nên những đỉnh cao chói lọi. Đặc biêt là bài viết đã chỉ ra được điều gì đã làm cho “Văn tế nghĩa dân chết trận Cần Giuộc là một khúc ca hùng tráng, não nùng, bi ai, một khúc ca đánh dấu một giai đoạn phát triển của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời phong kiến” [3; Cũng trong quyển sách này, bài viết của Lê Trí Viễn đã có những cảm nhận khá tinh tế về tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Bằng những lời lẽ phân tích lập luận vô cùng xác đáng ông đã đem đến cho bạn đọc một cách nhìn mới về tác phẩm này “Tác phẩm đã làm nên một thiên anh hùng ca tuyệt diệu, không ai khác hơn họ là những người nông dân hiền lành, giản dị, quanh năm chỉ biết cày cấy làm ăn, chân lắm tay bùn. Vậy mà khi lòng nghĩa dấy lên, căm thù quân giặc, chán trông vua quan, đã biến họ thành những người cứu nước anh hùng và “hình bóng của họ làm chủ chiến trường, nổi lên nền trời, kín lấp cả không gian, lồng lộng như một tượng thần kỳ vĩ, một tượng thần anh hùng ca” [3; Đó đúng là một thiên anh hùng ca tuyệt diệu với tư tưởng lớn song lời văn rắn rỏi, mãnh liệt, âm điệu dồn dập, sôi sục bản hùng ca này đã làm biết bao thế hệ hết lời ngợi khen và kính phục trước một ông Đồ mù – Đồ Chiểu. Tác phẩm đã tạo nên một sức mạnh lớn “Đó là sức mạnh trong lòng người, trước mắt và mai sau. Đó là sức mạnh diệu kỳ, có khả năng làm cho người ta sảng khoái nở gan nở ruột, có lúc làm cho người ta khoa chân múa tay, mà cũng có lúc khiến người ta trầm ngâm suy nghĩ về một bài học vinh nhục ở đời, về lý tưởng vì nước vì dân.” [3; 5 Từ những công trình nghiên cứu trên, ta thấy được sức ảnh hưởng rất lớn từ cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu. Đặc biệt khi Nguyễn Đình Chiểu cho ra đời Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc. Đề tài “Giá trị nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu” như chúng tôi đã đề cập hiện có rất nhiều bài viết, những công trình nghiên cứu liên quan đến tác phẩm này, nhưng những công trình ấy còn ở mức khái quát, chưa thật cụ thể và trọn vẹn được vấn đề mà chúng tôi đang nghiên cứu. Song, chính những công trình ấy sẽ là nguồn tư liệu vô cùng quý báu giúp chúng tôi tìm hiểu và triển khai đề tài “Giá trị nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu” một cách sâu sắc và trọn vẹn hơn. 3. Mục đích nghiên cứu Chọn đề tài “Giá trị nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu” nhằm mục đích nghiên cứu tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc sâu sắc và toàn diện trên cả hai khía cạnh nội dung và nghệ thuật, để từ đó thấy được cái giá trị cốt lõi mà tác phẩm đã mang lại đâu là giá trị nội dung và đâu là giá trị nghệ thuật. Từ giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm đã làm nổi bậc tư tưởng gì của tác giả? Ở khía cạnh nội dung mục đích chúng tôi muốn tìm hiểu là khai thác đâu là giá trị nội dung chính trong tác phẩm và từ đó triển khai một cách trọn vẹn những vấn đề được đặt ra trong tác phẩm. Ở khía cạnh nghệ thuật với mục đích là tìm hiểu đâu là những biện pháp nghệ thuật chủ yếu được tác giả sử dụng trong tác phẩm? Những biện pháp đó góp phần quan trọng như thế nào cho việc hình thành nội dung tác phẩm. Trên cơ sở đó chúng tôi triển khai để làm nổi bậc giá trị nghệ thuật mà tác phẩm đã mang lại. Bên cạnh đó, việc tìm hiểu về đề tài này sẽ giúp chúng tôi góp phần nhỏ của mình vào việc nghiên cứu giá trị thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu. 4. Phạm vi nghiên cứu Đối với đề tài này phạm vi nghiên cứu sẽ xoay quanh tìm hiểu “Giá trị nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu”. Phạm vi khảo sát chủ yếu là tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của 6 Nguyễn Đình Chiểu. Bên cạnh đó trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sẽ so sánh với một số bài văn tế và một số tác phẩm khác có liên quan để bổ sung và làm sáng tỏ đề tài. Tuy nhiên phạm vi khảo sát chủ yếu vẫn là tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. 5. Phương pháp nghiên cứu Để việc nghiên cứu đề tài “Giá trị nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu” một cách hoàn chỉnh và thật lôgic chúng tôi chủ yếu sử dụng các phương pháp sau Phương pháp tiểu sử Khi nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng phương pháp tiểu sử để tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác văn chương của tác giả nguyễn Đình Chiểu. Từ cuộc đời và sự nghiệp văn chương của ông đã đem đến những giá trị cao đẹp, là bài học làm người cho nhân loại. Phương pháp phân tích – tổng hợp Sử dụng phương phân phân tích – tổng hợp chủ yếu là để đi sâu khám phá từng yếu tố từng khía cạnh nội dung cũng như nghệ thuật từ đó làm cơ sở để chúng tôi tổng hợp lại các giá trị cốt lỗi mà bài văn tế đã đem lại. Phương pháp so sánh – đối chiếu Giúp chúng tôi chọn được văn bản tốt nhất, gần nhất với tác giả cũng như tác phẩm để từ đó chúng tôi có thể triển khai vấn đề một cách chính xác và khách quan hơn. Ngoài ra, khi nghiên cứu đề tài này chúng tôi còn sử dụng các thao tác tư duy bổ trợ cần thiết cho các phương pháp nghiên cứu chính như phân tích, tổng hợp, chứng minh, giải thích, hệ thống,…nhằm mục đích làm sáng tỏ vấn đề một cách rõ ràng, thuyết phục. 7 PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG Vài nét về tác giả Nguyễn Đình Chiểu Nguyễn Đình Chiểu 1882-1888 là một trong những tác giả tiêu biểu nhất của dòng văn học yêu nước nữa cuối thế kỷ XIX. Tuy Nguyễn Đình Chiểu sống trong giai đoạn lịch sử đầy bão táp và ngay cả cuộc đời của ông cũng phải trải qua nhiều biến cố, thăng trầm, thế nhưng những điều đó không làm quật ngã được một con người với tấm lòng yêu nước, thương dân bất khuất chính vì thế mà tên tuổi của ông mãi được tôn vinh và ca ngợi muôn đời. Đi sâu vào tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp của ông để thấy được tấm gương về một nhà văn hóa và những đóng góp vô cùng to lớn trong lĩnh vực văn chương. Về cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu, tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, sau khi bị mù có hiệu là Hối Trai. Sinh ngày 13 tháng 5 năm Nhâm Ngọ, tức ngày 1 tháng 7 năm 1882, ở làng Tân Khánh, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh trong một nhà đình phong kiến lớp dưới. Cha là Nguyễn Đình Huy người xã Bồ Điền, huyện Phong, tỉnh Thừa Thiên Trung Việt, vào Sài Gòn làm thơ lại, nơi Văn Hàn Ty của Tả quân Lê Văn Duyệt. Mẹ là Trương Thị Thiệt, người làng Thanh Ba, huyện Cần Giuộc, tỉnh Gia Định. Nguyễn Đình Chiểu sinh ra trong một gia đình không lấy gì làm cao sang lắm. Nhưng, dù sao từ thuở thiếu thời, ông cũng chưa đến nỗi phải sống một cuộc đời lao đao, vất vả nếu không có cảnh quốc biến dẫn đến gia biến bất ngờ đã khiến cho cuộc đời ông phải trải qua nhiều bước thăng trầm, phải sống trong cảnh khổ đau của bản thân và của đất nước. Từ thời thơ ấu cho đến tuổi mười một, mười hai, Nguyễn Đình Chiểu đã được sống và học tập có nền nếp bên cạnh bà mẹ hiền. Ông thường được mẹ kể cho 8 nghe nhiều truyện cổ nhân gian và được theo mẹ đi xem hát ở vườn Ông Thượng tức vườn tao Đàn ngày nay. Qua đó, Ông đã được mẹ giáo giục về những điều thiện ác, trung nịnh, chính tà, nhân nghĩa,..Nguyễn Đình Chiểu lại được theo học ở làng với một ông đồ, ông này là học trò ông Nghè Chiêu, môn sinh của Võ Trường Toản. Việc nuôi dạy của bà mẹ và việc giáo dục của thầy vỡ lòng đã có ảnh hưởng rất lớn đối với sự hình thành tư tưởng sao này của ông. Nhưng rồi đường đời của ông không phải cứ thẳng tấp, suôn sẻ. Từ năm mười một, mười hai tuổi ông đã phải trải qua những ngày bão táp kinh hoàng và rẽ vào một lối khác gập ghềnh khúc khuỷu. Tuổi niên thiếu của Nguyễn Đình Chiểu từng chứng kiến cảnh loạn lạc của xã hội lúc bấy giờ, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi tại Gia Định. Cuộc nổi dậy này đã khiến cha ông phải bỏ chốn ra Huế rồi bị cách chức. Năm 1833 cha ông trở vào Nam, đem Nguyễn Đình Chiểu chạy ra Huế. Ở đây, Nguyễn Đình Chiểu được gởi vào gia đình một quan lại Thái phó, hàng ngày vừa lo việc điếu đãi hầu hạ, vừa ra sức học tập. Vụ án Lê Văn Duyệt và cuộc khởi nghĩa Lê Văn Khôi là sự bùng nổ của những mâu thuẫn sâu sắc đã ngấm ngầm lâu nay trong nội bộ của tập đoàn phong kiến thống trị. Sự kiện hãi hùng này cùng với điều tai nghe mắt thấy trong tám năm ông theo học tại Huế và chế độ quan trường, hẳn đã gợi trong đầu ông những suy nghĩ đầu tiên về thời thế, công danh, về đạo lý làm người và nhất là về đất nước và dân tộc. Luôn ý thức được trách nhiệm và nghĩa vụ của một người con yêu nước, ngay từ bé Nguyễn Đình Chiểu đã cố gắng học tập và không ngừng trao dồi kiến thức, tu dưỡng bản thân để trở thành một người có đầy đủ đức và tài hoàn thành sự nghiệp vẽ vang cho dân tộc. Năm 1843 ông đỗ Tú tài ở trường thi Gia Định, đúng vào năm 21 tuổi. Khi ấy có một nhà họ võ hứa gả con gái cho ông. Thành công bước đầu đã khuyến khích ông thêm nỗ lực, ra công đèn sách. Năm 1847, ông trở ra Huế học để chờ khoa thi năm Kỷ Dậu 1849. Cùng năm thì ông nghe tin giặc Pháp nổ súng xâm lược nước ta, nỗi đau vì “tấc đất ngọn rau” của Tổ quốc đang bị xâm phạm chưa nguôi thì ông lại nghe tin sét đánh từ Gia Định đưa ra là mẹ mất, khoa thi đành dang dỡ. Trên đường trở về Sài Gòn chịu tang mẹ, 9 giữa đường vì quá thương khóc mẹ và phần vì thời tiết thất thường nên ông bị lâm bệnh mắc chứng đau mắt và từ đó ông đã vĩnh viễn không còn nhìn thấy gì nữa. Trong thời gian nghĩ lại tại Quảng Nam chữa bệnh, tuy bệnh không hết nhưng ông đã được danh y truyền dạy nghề thuốc. Đui mù, trở về chịu tang mẹ, Nguyễn Đình Chiểu lại gặp cảnh éo le chua chát vị hôn thê bội ước, cảnh nhà sa sút,…ông đóng cửa chịu tang cho đến năm 1851, sau khi mãn tang mẹ, ông mới mở trường dạy học và làm thuốc. Có thể nói đến lúc này, ông đã trưởng thành về tuổi đời và cả về tư tưởng. Đó chính là “lòng đạo” tức cái tư tưởng nhân nghĩa của ông. Từ đây ông đã thực hiện việc cứu người về thể chất, dạy người về tinh thần. Công việc hành đạo bắt đầu với những phương thức khác nhau dạy học, làm thuốc và sáng tác văn học. Năm 1854, một người học trò tên là Lê Tăng Quýnh vì cảm phuc và mến thương ông, nên đã xin gia đình gả cô em gái thứ năm của mình tên là Lê Thị Điền 1835-1886, người Cần Giuộc Long An cho thầy. Kể từ đó cuộc sống đã bớt nỗi cô đơn. Gần ngót chục năm, ông vừa dạy học vừa làm thuốc và cũng vừa sáng tác truyện Lục Văn Tiên và Dương Từ Hà Mậu để gởi gắm tình ý cùng hoài bảo của mình. Ông đã có được cuộc sống yên vui bên cạnh gia đình ấm cúng và trong tình thương yêu quý trọng của nhân dân và môn sinh của mình. Đến năm 1859, quân Pháp sau khi đánh chiếm Đà Nẵng, đã kéo vào Sài Gòn, tràn vào sông Bến Nghé, quan quân của triều đình chống trả yếu ớt. Ngày 17 tháng 2 năm 1859, Pháp chiếm thành Gia Định. Năm 1859 có thể nói là năm đã mở ra một thời kì đen tối của đất nước và cũng mở đầu cho những trang sử đẫm máu mà vẻ vang, oanh liệt của dân tộc ta chống trả quyết liệt bọn thực dân cướp nước. Từ đây cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu cũng sang trang để bắt đầu ghi nhận những sự kiện oai hùng của đất nước chống ngoại xâm. Bài Chạy giặc ghi lại sự kiện sông Bến Nghé, có lẽ là bài thơ mở đầu cho một thời kì yêu nước, đồng thời cũng là bài thơ mở đầu cho cái nhìn độc đáo của nhà thơ. Khác với một số nhà thơ nhà văn đương thời, người “dân đen” đã bắt đầu đi vào thơ văn yêu nước của ông, khác với một số nhà thơ, nhà văn đương thời. Ngòi bút nhân nghĩa đã viết về Lục Vân Tiên Trước kia giờ đây đã cụ thể hóa thành tinh thần yêu nước chống ngoại 10 xâm. Và từ đây ngòi bút ấy đã trở thành một vũ khí sắc bén đâm thẳng vào lũ giặc cướp nước và bọn tay sai bán nước. Đối với ông, nhân nghĩa và chống ngoại xâm là đức tính truyền thống cao cả của dân tộc. Nó thống nhất nguyện hòa làm một, không tách rời nhau “Mến nghĩa bao đành làm phản nước Có nhân sao nỡ phụ tình nhà” Nguyễn Đình Chiểu sống ở Sài Gòn, cho đến khi thành Gia Định thất thủ 17-02-1859 mới dọn về quê vợ tại làng Thanh Ba, quận Cần Giuộc. Cũng tại nơi đây, ông sáng tác Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được nhân dân cả nước đánh giá cao. Khi 3 tỉnh miền Đông rơi vào tay quân Pháp, không thể sống trong vùng chiếm đóng, ông đành phải cùng gia đình xuôi về Ba Tri, tỉnh Bến Tre “Vì câu danh nghĩa phải đi xa Day mũi thuyền Nam dạ xót xa” Tại đây ông tiếp tục dạy học, làm nghề thuốc chữa bệnh cho nhân lúc này, Nguyễn Đình Chiểu sáng tác Ngư Tiều y thuật vấn đáp, một tác phẩm vừa có tính văn học, vừa có tính y học cao. Mặt dù đời sống thì chật vật, mắt mù, đi lại khó khăn Nguyễn Đình Chiểu vẫn giữ mối quan hệ chặt chẽ với sĩ phu yêu nước như Phan Văn Trị, Nguyễn Thông và các lực lượng kháng chiến; từ chối mọi cám vỗ của đối phương. Thời gian này, Nguyễn Đình Chiểu sáng tác nhiều thơ văn bi tráng nhất, tiếc thương những đồng bào, bạn bè, nghĩa sĩ đã mất. Trong khi dùng đầu óc tham gia kháng chiến, “lòng đạo” của Nguyễn Đình Chiểu ngày càng được củng cố. Ông đã từng khẳng định “lòng đạo” của mình thủy chung đứng vững “Sự đời thà khuất đôi tròng thịt Lòng đạo xin tròn một tấm gương” Tấm gương ấy quả thật là một tấm gương nhân nghĩa và chứa chan lòng yêu nước. Tấm gương ấy là một tấm gương trong sáng, suốt đời không chút bụi mờ, không danh lợi nào có thể làm hoen ố. Suốt một cuộc đời ông luôn sống thanh bạch, cao cả bên cạnh đám học trò thân yêu và quần chúng nhân dân lao động. Con người vĩ đại ấy khiến cho kẻ thù phải cuối đầu khâm phục. Đặc biệt là khi tác phẩm Văn 11 tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ra đời tên tuổi của ông còn vang danh khắp chốn. Nhiều người hết sức tâm đắc ngợi khen, trong đó có Tùng Viện Vương Miên Thẩm và nữ sĩ Mai Am. Năm 1888, khi nghe tin Hàm Nghi bị Pháp bắt ông đau buồn vô hạn, phần vì mang bệnh trong người đã nhiều năm qua, cơ thể thêm hao mòn, ông trút hơi thở cuối cùng vào ngày 3-7-1888 tại Ba Tri, Bến Tre. Cánh đồng Ba Tri rợp bóng khăn tang của những bạn bè, học trò, con cháu xa gần, những thân chủ được ông chửa khỏi bệnh và những đồng bào quanh vùng hoặc đã chịu ơn ông, hoặc vì mến mộ một tâm hồn lớn, một nhân cách lớn. Nhân cách của nguyễn Đình Chiểu là một minh chứng sống động tinh thần lạc quan của con người. Cuộc đời dù nghiệt ngã, nhưng sự nghiệp của con người ấy không thế mà buông xuôi theo số phận. Vượt qua số phận để đứng vững trước những sóng gió của cuộc đời, chính là thái độ sống của một con người có nhân cách cao đẹp. Về sự nghiệp văn chương Quá trình sáng tác Cuộc đời khí tiết của Nguyễn Đình Chiểu đã làm nên một sự nghiệp vẻ vang – sự nghiệp văn chương chiến đấu đánh thẳng vào giặc ngoại xâm và tôi tớ chúng, sự nghiệp của một chiến sĩ kiên cường không biết mệt mõi trên mặt trận văn hóa dân tộc, trọn đời hy sinh phấn đấu vì một nghĩa lớn. Nguyễn Đình Chiểu là một trong những nhà thơ lớn đầu tiên ở Nam kỳ sáng tác chủ yếu bằng chữ Nôm. Cuộc đời sáng tác của ông có thể chia làm hai giai đoạn tương ứng với sự hình thành và phát triển tư tưởng trong ông Giai đoạn đầu là giai đoạn những năm mươi của thế kỷ XIX. Trong giai đoạn này, ngoài việc dạy học và làm thuốc, ông đã viết hai tập truyện dài Truyện Lục Vân Tiên và Dương Từ Hà Mậu, đều nhằm mục đích là truyền bá đạo lí làm người. Lục Vân Tiên là tác phẩm thơ Nôm đầu tiên, trong đó có những mối quan hệ tức cực và tiêu cực trong gia đình và xã hội, thông qua những nhân vật lý tưởng như Vân Tiên, Nguyệt Nga, Hớn Minh, Tử Trực, Tiểu đồng, những người lao động giàu 12 lòng nhân nghĩa như vợ chồng ông ngư, ông Tiều…qua đó Nguyễn Đình Chiểu muốn khẳng định con người sống phải có nhân nghĩa, đạo lý, phải tương thân giúp đỡ nhau trên cơ sở nhân nghĩa. Đồng thời ông phê phán những việc làm phản nhân nghĩa. Dương Từ - Hà Mậu. Theo kết quả nghiên cứu nhiều người, thì Dương Từ Hà Mậu có thể được soạn từ năm 1851 và hoàn chỉnh vào những năm trước khi thành Gia Định rơi vào tay giặc Pháp. Là một tác phẩm lớn toát ra một tinh thần yêu nước và căm thù giặc sâu sắc. Trước nguy cơ đổ vỡ cả nền tản đạo đức cố hữu do ý đồ của quân thù xâm lược, Dương Từ - Hà Mậu như lời kêu gọi mọi người trở về với “chính đạo”, đủ tạo ra một sức mạnh cứu nguy cho Tổ quốc. Tác phẩm chỉ ra một trân lý sáng ngời cực kỳ quan trọng là phải biết tiêp thu những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc mà ông mệnh danh là “chính đạo” để tu dưỡng mọi người đạt tới được sự thống nhất tư tưởng, biết yêu lẽ chính, ghét cái tà để hành động cho sự tiến bộ của xã hội. Giai đoạn thứ hai là giai đoạn phát triển cao và rực rỡ của sự nghiệp văn chương Nguyễn Đình Chiểu. Giai đoạn này mở đầu từ những ngày giặc Pháp mới tràn vào sông Bến Nghé cho đến khi cõi Lục tỉnh Nam Kỳ bị chiếm đóng tức là vào những năm 60 và 70 của thế kỷ XIX. Ở giai đoạn này thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu đã trở thành lá cờ đầu tiên của thơ văn yêu nước chống Pháp nửa cuối thế kỷ XIX với những tác phẩm xuất sắc về cả nội dung tư tưởng, tình cảm và nghệ thuật như Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế Trương Định, Thơ điếu Trương Định, Thơ điếu Phan Tòng, Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh, Ngư Tiều y thuật vấn đáp còn gọi là Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca, một truyện thơ dài. Tư tưởng yêu nước vốn có trong Lục Vân Tiên – một tư tương yêu nước thuần túy lý tưởng – đến giai đoạn này lại được đem ra thể nghiệm, thử thách trong thực tế chống giặc ngoại xâm với một kẻ thù hung bạo, hiện đại, chứ không phải là thứ giặc “Ô Qua” tưởng tượng. Tư tưởng yêu nước đó đã được thử thách và được tôi luyện trở thành chủ nghĩa yêu nước rất chân thực và rất hiện thực, vì nó phải đương đầu giải quyết nhiều mâu thuẩn thực tế Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa trung quân Nho giáo với chủ nghĩa yêu nước, mâu thuẩn giữa quan niệm nho giáo với quan niệm truyền thống về vai trò và vị trí của giai cấp nông dân với một nước 13 phong kiến chống ngoại xâm; và vì nó đã mang trong nó tất cả sức sống mãnh liệt chiến đấu đương thời, rất gần với chủ nghĩa yêu nước truyền thống. Thơ – Văn tế của ông mang tính chất thời sự, tính chiến đấu sôi nổi. Ông đã vạch trần tội ác của giặc và tay sai, nói lên ước mơ nước nhà được giải phóng của nhân dân và thể hiện sự căm thù của quần chúng nhân dân đối với bọn xâm lược. Nó đã làm sống lại trong tâm trí của chúng ta phong trào kháng Pháp oanh liệt và bền bỉ của nhân dân Nam Bộ suốt trong cả giai đoạn này. Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca, như tên của tập sách, thì đó là một quyển văn vần dạy nghề thuốc chữa bệnh. Nhưng chủ ý của tác giả là qua câu chuyện vấn đáp giữa hai nhân vật Ngư và Tiều mà tiếp tục biểu dương đạo đức làm người. Nguyễn Đình Chiểu đã mượn lời của những nhân vật trong truyện để nói nên lòng yêu nước, căm thù giặc, khinh ghét bọn người vô sỉ, cam tâm làm tay sai cho quân xâm lược. Và ông cũng mượn câu truyện này để nói lên những vấn đề mà ông hằng quan tâm, đau lòng vì nó. Bằng ngòi bút của mình, Nguyễn Đình Chiểu đã suốt đời chiến đấu không mệt mỏi cho đạo đức chính nghĩa, cho độc lập tự do của dân tộc. Nguyễn Đình Chiểu đã viết nên những trang viết đề cao tư tưởng nhân nghĩa và tinh thần yêu nước sâu sắc. Sự nghiệp văn chương của ông đã đưa ông lên địa vị của một người mở đầu cho dòng văn học yêu nước và là ngôi sao sáng trong bầu trời văn học dân tộc trong thời cận đại. Nội dung thơ văn Đề cao lý tưởng đạo đức, nhân nghĩa Vận mệnh đen tối, cuộc đời bế tắc, phải sống trong cảnh mù lòa, không hề than trách cho số phận của mình, ông đã vượt qua tất cả. Và chính Nguyễn Đình Chiểu lại đem đến một nguồn ánh sáng nhân nghĩa chói lọi, đem đến cho nhân loại một bài học quí về đạo lý làm người. Dẫu là mù nhưng con người ấy có cái tâm sáng ngời và bằng một ý chí lạc quan kiên cường ông đã chiến thắng được vận mệnh. Đề cao lý tưởng đạo đức, “nhân nghĩa” là một trong những nội dung cốt lõi được ông nhắc đến trong những áng thơ văn của mình. Trong đó, có thể nói Lục Vân Tiên là tác phẩm thể hiện sâu sắc và rõ nét nhất nội dung này. Mục đích mà 14 Nguyễn Đình Chiểu viết nên tác phẩm này là truyền dạy những bài học về đạo làm người chân chính . Đó là đạo lý mang tinh thần của đạo nho nhưng lại rất đậm đà tính nhân dân và truyền thống dân tộc. Những mẫu người lí tưởng trong tác phẩm là những con người sống nhân hậu, thủy chung, biết giữ gìn nhân cách thẳng ngay, cao cả, dám đấu tranh và có đủ sức mạnh để chiến thắng những thế lực tàn bạo, cứu nhân độ thế như lời của Lục Vân Tiên “Tôi xin ra sức anh hào Cứu người cho khỏi lao đao buổi này” Hay “Làm ơn há dễ mong người trả ơn” Từ khi tác phẩm Lục Vân Tiên ra đời khó mà nói hết được lòng hâm mộ của bà con miền Nam đối với tác phẩm này. Hầu hết bà con nông dân đều thuộc và kể Lục Vân Tiên. Mỗi em bé miền Nam được mẹ, bà ru kể chuyện Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga. Điều gì đã cuốn hút sự ham thích say mê của bà con miền Nam đối với tác phẩm bất hủ ấy? Điều trước tiên theo tôi là do tác phẩm mang đậm đà tính dân tộc bởi ngôn ngữ bình dị, trong sáng của nó. Điều quan trọng là tác phẩm mang một giá trị giáo huấn con người, đề cao lý tưởng nhân nghĩa một cách xác đáng. Trọng nghĩa khinh tài, ghét điều gian ác là một đặc trưng của nông dân miền Nam nói riêng và người dân việt Nam nói chung. Ai mà chẳng yêu, chẳng kính những con người như Lục Vân Tiên, Nguyệt Nga, Hớn Minh, Tử Trực, ông Quán, ông Tiều, ông Ngư, Tiểu Đồng. Và ai mà chẳng ghét những con người gian ác như Trịnh Hâm, Bùi kiệm, cha con Võ Thể Loan. Những con người tốt trong Lục Vân Tiên kế tục truyền thống cao quí của dân tộc về nhân nghĩa. Đó là những con người trung thực, làm những việc nghĩa như một nhu cầu mà không hề nghĩ đến tiền tài, danh lợi “Nhớ câu trọng nghĩa khinh tài…” “Nhớ câu kiến nghĩa bất vi làm người thế ấy cũng phi anh hùng…” Lục Vân Tiên là nhân vật lý tưởng của tác giả. Lục Vân Tiên mang đầy những phẩm chất tốt đẹp của con người mà Nguyễn Đình Chiểu Mơ ước. Chàng cứu Nguyệt Nga vì thấy chuyện bất bình và hết lòng giúp đỡ mà không cần trả ơn gì 15 cả. Chàng rất có hiếu với mẹ và vì quá thương khóc mẹ mà bị mù. Cho nên chàng còn biểu thị cho đạo đức và làm xúc động lòng người. Bên cạnh Lục Vân Tiên “Trai thời trung hiếu làm đầu” thì Nguyệt Nga là người con gái điển hình cho lòng chung thủy kiên trinh Việt Nam “Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình”. Nguyệt Nga không phải là người con gái chỉ biết trung hậu một cách thụ động, nàng đã đấu tranh chống lại sự áp bức của triều đình. Nàng đã can đảm chống lại số phận và nàng đã thắng. Những tập tục cố hủ phong kiến không thể nào ràng buộc một người phụ nữ đảm đang bất khuất, biết làm chủ lấy cuộc sống của mình. Khi xây dựng nhân vật điển hình ông Quán, cũng như khi xây dụng nhân vật điển hình Kỳ Nhân Sư trong Ngư Tiều Y thuật vấn đáp, Nhân Sư nói lẽ chính tà, ông Quán tập chung vào sự ghét thương “Quán rằng rét việc tầm phào, Ghét cay ghét đắng, ghét vào tận tâm. Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm, Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang. Ghét đời U, Lệ đa đoan, Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần. Ghét đời Ngũ bá phân vân, Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn. Ghét đời Thúc, Quý phân bằng, Sớm đầu, tối đánh lằng nhằng rối dân”. Nguyễn Đình Chiểu đặc biệt nhấn mạnh tư tưởng thương ghét sao cho đúng? Phải biết đánh giá tốt xấu, phải trái, phải biết nhận định nên chăng. Cái nào đáng ghét thì “ghét cai ghét đắng”, “ghét vào tận tâm”. Cái nào đáng thương thì thýõng một cách thiết tha, chân thành. Nguyễn Đình Chiểu lấy tiêu chuẩn của sự ghét thương là “dân”, ai vì dân hay hại dân, vì dân thì ta thương, ai hại dân thì ta ghét. Trong cuộc đời đầy rẫy phức tạp, tiêu chuẩn ghét thương qua lời ông Quán là xác đáng. Bởi lẽ phải nhận định được đâu là phải, đâu là tốt xấu, nên chăng mới thật sự là người có lí tưởng nhân nghĩa. 16 Tóm tắt bài Tìm hiểu chung a. Hoàn cảnh sáng tác Năm 1859, giặc Pháp tấn công Gia Định, nhân dân Nam bộ đứng lên chống giặc. Đêm 14/12/1861, trận Cần Giuộc nổ ra gây nhiều tổn thất lớn cho giặc, nhưng cuối cùng quân ta cũng thất bại. Tuần phủ Gia Định nhờ tác giả viết để tỏ lòng tiếc thương những người đã hi sinh. Như vậy Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc không đơn thuần là sản phẩm của nghệ thuật cá nhân mà còn là tác phẩm mang tính quốc gia, thời đại. b. Thể loại Bài văn tế được viết theo thể phú luật Đường với bố cục 4 phần c. Bố cục Câu 1 -2 lung khởi Hoàn cảnh chiến đấu và hi sinh của nghĩa quân Câu 3 - 15 thích thực Cuộc đời, cảnh chiến đấu anh dũng của nghĩa quân Câu 16 - 23 ai vãn Sự hi sinh cao quý của người nghĩa quân Câu 24 - 30 kết Niềm tự hào và thương tiếc về những người đã hi sinh Đọc - hiểu văn bản a. Lung khởi Câu 1 phép đối súng giặc >< không quen tập súng, mác, cờ, cung ngựa → Họ là những người nông dân hoàn toàn xa lạ với việc binh đao. Khi giặc Pháp xâm lược Tình cảm Lo sợ phập phồng, trông chờ ở triều đình Căm ghét quân giặc "muốn tới ăn gan", "muốn ra cắn cổ", "ghét....như nhà nông ghét cỏ" Nhận thức "một mối sa thư đồ sộ....theo dê bán chó" → Ý thức trách nhiệm đối với non sông, đất nước. Hành động Tự nguyện đứng lên đánh giặc Trong trận công đồn Hoàn cảnh chiến đấu Không biết về kinh thư yếu lược Trang bị manh áo vải, ngọn tầm vông, dao phong...→ Trang bị thô sơ là những vật dung sinh hoạt thường ngày Quân giặc đạn nhỏ, đạn to, tàu sắt, tàu đồng → vũ khí tối tân Khí thế chiến đấu Bút pháp tả thực Động từ mạnh đạp, xô, đâm, chém, xông → các cụm từ vừa diễn tả tinh thần vừa diễn tả khí thế chiến đấu xô cửa, xông vào, đạp rào, hè trước... Câu văn ngắn gọn, nhịp đệu khẩn trương, sôi động. ⇒ Tinh thần chiến đấu ngoan cường, quả cảm, dũng mãnh ⇒ Tác giả đã xây dựng bức tượng đài bất tử về người nông dân yêu nước, họ mang vẻ đẹp của người anh hùng chân chất mà làm nên lịch sử, vừa phi thường vừa bình thường. c. Phần ai vãn và kết thúc Tiếc hận cho các nghĩa sĩ ra đi khi sự nghiệp còn dang dở, ý nguyện chưa thành Tiếc thương cho Quê hương; nhân dân Sông Cần Giuộc cỏ cây mấy dặm sầu giăng Chợ Trường Bình già trẻ hai hàng lụy nhỏ Gia đình; người thân Mẹ già khóc trẻ vợ yếu chạy tìm chồng → cảnh tan tác, hắt hiu, đau thương Khóc uất cho tình cảnh đau thương của quê hương đất nước. Thể hiện được niềm cảm phục và tự hào đối với các nghĩa sĩ Dũng cảm đứng lên đánh giặc Cái chết đã làm sáng tỏ chân lí của thời đại "chết vinh còn hơn sống nhục" Biểu dương tâm trạng "ôi một trận khói tan nghìn năm tiết rỡ..." ⇒ Khích lệ những người còn sống đứng lên đánh giặc Tổng kết Nội dung Bài văn tế là tiếng khóc bi tráng cho một thời kì lịch sử đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc. Tác giả đã xây dựng nên bức tượng đài bất tử về người nông dẫn nghĩa sĩ Cần Giuộc. Lần đầu tiên trong văn học Việt Nam người nông dân có mặt ở vị trí trung tâm với tất cả vẻ đẹp bi tráng của tấm lòng dũng cảm hi sinh vì Tổ quốc. Nghệ thuật Kết hợp nhuần nhuyễn chất trữ tình và tính hiện thực Ngôn ngữ vừa trang trọng vừa dân dã, bình dị, mang đậm sắc thái Nam bộ. Bài tập minh họa Ví dụ Đề Hãy chỉ ra tiếng khóc bi tráng của Nguyễn Đình Chiểu trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc Gợi ý làm bài Các em có thể dựa vào những gợi ý dưới đây Đoạn Ai vãn là tiếng khóc bi tráng của tác giả trong bài văn tế. Tiếng khóc bi tráng ấy bắt nguồn từ Nỗi xót thương đối với người tử sĩ Niềm tiếc hận cho người phải hi sinh khi sự nghiệp còn dang dở. Nỗi đau đớn, não nùng của gia đình mất đi người thân. Nỗi căm hờn đối với những kẻ đã gây nên nghịch cảnh cho người nông dân. Tiếng khóc thương trong bài văn tế không chỉ thể hiện tình cảm riêng của tác giả mà đó còn là tiếng khóc của nhân dân cả nước, là nõi niềm, là sự tri ân, ghi nhận, tuyên dương công trạng của người nghĩa sĩ. Tiếng khóc không chỉ gợi lại sự tiếc thương mà còn khích lệ lòng căm thù giặc và ý chí tiếp nối sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Đoạn Ai vãn là tiếng khóc bi tráng, mang nỗi đau tột cùng nhưng không chìm ngập rồi tan biến theo sự thương tiếc mà tiếng khóc ấy hết sức hùng hồn, phảng phất âm hưởng tự hào, khẳng định ý nghĩa bất tử của cái chết vì dân vì nước của người nông dân. Hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ được tái hiện trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc với vẻ đẹp bên ngoài bình dị, đời thường; vẻ đẹp bên trong là lòng dũng cảm, tinh thần vì nghĩa xả thân; khi đứng trước cảnh nước nhà bị xâm lăng họ vùng lên bằng tinh thần quật khởi. Để hiểu sâu sắc hơn về tác phẩm, các em có thể tham khảo bài soạn tại đây Bài soạn Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. 4. Hỏi đáp về bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc phần tác phẩm Nếu có thắc mắc cần giải đáp các em có thể để lại câu hỏi trong phần Hỏi đáp, cộng đồng Ngữ văn HỌC247 sẽ sớm trả lời cho các em. 5. Một số bài văn mẫu về Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc phần tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng nên một bức tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân tương xứng với những phẩm chất vốn có ngoài đời của họ. Nguyễn Đình Chiểu đã tạc nên hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân trong trạng thái, tính cách, hành động theo bản chất của người nông dân. Để cảm nhận sâu sắc hơn và dễ dàng viết một bài văn hoàn chỉnh, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" là một tác phẩm văn chương có tính lịch sử cao và mang đến cho độc giả một cái nhìn sâu sắc về tinh thần và sự hy sinh của những người nghĩa sĩ. Dưới đây là bài phân tích giá trị nghệ thuật đặc sắc bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc hay nhất, mời bạn đọc cùng đón xem. Mục lục bài viết 1 1. Dàn ý phân tích giá trị nghệ thuật đặc sắc bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc Mở bài Thân bài Kết bài 2 2. Phân tích giá trị nghệ thuật đặc sắc bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc hay nhất 3 3. Phân tích giá trị nghệ thuật đặc sắc bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc chọn lọc Mở bài – Giới thiệu tác phẩm và tác giả. – Giới thiệu vấn phân tích giá trị nghệ thuật đặc sắc bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Thân bài – Tác phẩm văn học này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam. Ngôn ngữ của tác giả không chỉ đơn thuần là giản dị và dân dã, mà còn có sức mạnh gợi cảm và giá trị thẩm mĩ cao, tạo nên một tác phẩm vô cùng sâu sắc và chân thật. – Tác giả sử dụng các từ ngữ và lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân Nam Bộ để tạo nên một tác phẩm đầy ắp những hình tượng nghệ thuật và liên tưởng so sánh đậm chất Nam Bộ. – Những liên tưởng này được sử dụng rất thành công, giúp tác giả khắc họa được vẻ đẹp và sự tươi vui của cuộc sống Nam Bộ. Lối ví von so sánh của tác giả cũng rất phù hợp với cuộc sống của người làm ruộng, rất phù hợp với nếp cảm và nghĩ của nông dân. – Khi mô tả hình ảnh của người nông dân nghĩa sĩ, tác giả không sử dụng bút pháp ước lệ rất phổ biến trong văn học trung đại mà hoàn toàn sử dụng bút pháp hiện thực. Nhiều thủ pháp nghệ thuật được sử dụng rất thành công, bao gồm biểu tượng súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ, so sánh trông tin quan như trời hạn trông mưa, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ, đặc tả đạp rào lướt tới, xô cửa xông vào, và đặc biệt là phép đối, đạt hiệu quả nghệ thuật cao. Phép đối từ ngữ và đối ý được sử dụng rộng rãi, giúp tác giả khắc họa vẻ đẹp bi tráng của người nông dân nghĩa sĩ. – Giọng văn của tác giả thay đổi linh hoạt, phù hợp với những nội dung được biểu đạt và trạng thái cảm xúc, trên nền âm hưởng chủ đạo là thống thiết. Khi miêu tả cuộc sống khó khăn của người nông dân, giọng văn bùi ngùi và trầm lắng cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó, chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu ở làng bộ. Tuy nhiên, khi ca ngợi những người nghĩa sĩ xả thân vì nước, lời văn trang trọng và tự hào Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời, ai cũng mộ. – Giọng điệu của bài văn thay đổi tùy theo nội dung, từ tiếng khóc đau thương đến lời khẳng định ngợi ca mang âm hưởng sử thi, tạo nên một tác phẩm giàu cảm xúc và vẻ đẹp bi tráng. Tác phẩm này là một bức tranh đẹp về cuộc sống và con người, tỏa sáng vẻ đẹp và sức mạnh của văn học Việt Nam. Kết bài – Đánh giá khái quát lại vấn đề nghị luận. – Liên hệ cảm nhận bản thân. 2. Phân tích giá trị nghệ thuật đặc sắc bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc hay nhất “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một tác phẩm văn chương có tính lịch sử cao và mang đến cho độc giả một cái nhìn sâu sắc về tinh thần và sự hy sinh của những người nghĩa sĩ. Tác phẩm này là một lời tri ân đối với những anh hùng vô danh đã đánh đổi tất cả để bảo vệ độc lập dân tộc. Những nhân vật trong tác phẩm không chỉ là những người anh hùng, mà còn là những con người thật sự, với những đức tính cao đẹp, những thử thách và khó khăn trong cuộc sống. Tác giả Nguyễn Đình Chiểu không chỉ miêu tả những nét đẹp tâm hồn của những anh hùng mà còn kết hợp rất nhiều những biện pháp nghệ thuật độc đáo và đặc sắc để tạo ra một tác phẩm văn chương tuyệt vời. Tác phẩm được xây dựng từ những tín hiệu nghệ thuật tiêu biểu, thể hiện qua từng câu thơ, câu văn mang tính độc đáo và sự mới mẻ. Đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm vừa là hình ảnh được xây dựng xuất chúng, vừa là thành quả lao động nghệ thuật của một cây bút tài ba, giàu lòng nhân ái. Nghệ thuật trong tác phẩm được thể hiện qua giọng điệu trữ tình, xót thương cho những người nghĩa sĩ nông dân oai hùng, quả cảm, ngôn từ gần gũi, giản dị mang âm hưởng Nam Bộ và thủ pháp xây dựng câu văn biền ngẫu đã được tác giả phối hợp, tạo nên bản anh hùng ca chói lòa, tri ân những người anh hùng đã xả thân vì nước. Các hình ảnh biểu trưng riêng biệt và các biện pháp tu từ nhuần nhuyễn, linh hoạt cũng được sử dụng để tạo ra tác phẩm văn chương đầy sức sống và ấn tượng đối với độc giả. Bài văn tế của Nguyễn Đình Chiểu là một tác phẩm văn học đặc sắc, với nhiều yếu tố nghệ thuật độc đáo. Nếu xét về khía cạnh nghệ thuật, không thể không nhắc đến cách sử dụng câu từ trong tác phẩm. Nguyễn Đình Chiểu đã tận dụng ngôn từ một cách thông minh để thể hiện sự tôn kính trong ngày lễ tế và sự tôn trọng đến những người đã hi sinh. Những thán từ như “Hỡi ôi”, “Khá thương thay”, “Ôi thôi thôi!”, “Ôi!”, “Đau đớn bấy”, “Não nùng thay!”… được sử dụng rải rác nhằm bộc lộ cảm xúc đạt tới đỉnh điểm của nhà văn, lại có tác dụng khơi gợi sự đồng cảm từ người nghe. Tác giả cũng sử dụng các từ ngữ đặc biệt mang tính địa phương như “bao tấu”, “bầu ngòi”, “chi nhọc”, “hai hàng lụy”,… để tạo nên sự tự nhiên và không hô hào sáo rỗng trong bài văn. Ngoài ra, tác giả cũng vận dụng những câu nói khai thác đời sống giản dị đời thường, chắt lọc trở thành những câu nói có giá trị nghệ thuật. Việc khai thác chất liệu hiện thực không khiến tác phẩm trở thành những câu thoại khẩu ngữ thường nhật, thay vào đó là hệ thống câu văn biểu cảm. Cùng với giọng văn oai hùng, bi tráng, nghệ thuật sử dụng ngôn từ đã khiến bài Văn tế trở nên vần điệu, lay động hơn. Bên cạnh đó, tác phẩm cũng bao trùm lên toàn bộ câu chuyện là âm hưởng anh hùng ca bi tráng, cơ ngợi công ơn lớn lao của những người lính nhân dân. Nguyễn Đình Chiểu không quên tỏ bày nỗi xót xa đến những mất mát đau thương mà những người thân của họ phải chịu đựng. Trong tác phẩm, Nguyễn Đình Chiểu đã dùng giọng văn mang khí chất anh hùng quả cảm, nêu lên quyết tâm ngùn ngụt của người lính Cần Giuộc. Tuy lực lượng vũ trang chênh lệch cả về trang thiết bị lẫn số lượng nhưng những người chiến sĩ Cần Giuộc không lấy đó làm lý do nản chí, chùn bước. Tác giả đã tạo ra không gian trận đấu mở ra trước mắt người đọc với những chuỗi hành động mạnh mẽ liên tiếp thể hiện tinh thần sắt đá, quật cường. Những câu văn giàu cảm xúc như “Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều”, “Não nùng thay! Vợ yêu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ” hay các câu ca dao tục ngữ được lồng ghép khéo léo như “tấc đất ngọn rau ơn chúa”, “bát cơm manh áo ở đời”,… cũng đã được tác giả lồng ghép vào tác phẩm để tăng thêm giá trị nghệ thuật. Tóm lại, Nguyễn Đình Chiểu đã tạo nên một tác phẩm văn học đặc sắc với sự kết hợp tinh tế giữa ngôn từ, câu nói và tình tiết. Các yếu tố nghệ thuật độc đáo của tác phẩm đã khiến cho bài văn tế trở nên đặc sắc hơn. 3. Phân tích giá trị nghệ thuật đặc sắc bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc chọn lọc Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng thành công bức tượng đài về những người anh hùng đánh giặc. Bức tượng đó đã truyền tải được giá trị nghệ thuật đặc sắc của bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, làm cho nó trở thành một tác phẩm bất tử trong lịch sử phát triển của văn học Việt Nam. Tuy nhiên, bức tượng đài này còn mang trong nó một giá trị rất quý giá khác, đó là tinh thần ngoan cường và lòng quyết tâm chiến đấu của những người nông dân mặc áo nghĩa quân. Điều này xuất phát từ phẩm chất cao cả của họ, vốn được đào tạo từ nghề nông, mang trong mình tính cần cù, giản dị và chất phác. Họ có “đôi bàn tay vàng” trong nghề nông, làm việc với sự quen thuộc của việc cuốc, cày, cấy tay. Họ có đôi mắt hiền lành, phản ánh vẻ đẹp hòa bình của cuộc sống thường nhật. Nhưng đối với quân xâm lược, lòng căm thù của họ thật sâu sắc, do mùi tinh chiến đã vấy vá trong ba năm qua. Tuy nhiên, tinh thần và lòng quyết tâm chiến đấu của họ lại rực rỡ hào quang của chân lý và chính nghĩa, được thể hiện qua những đường nét đẹp, khỏe khoắn và hào hứng trên bức tượng đài. Điểm nổi bật của bức tượng đài này là sự độc đáo và tinh tế trong việc tái hiện tinh thần ngoan cường của những người nông dân yêu nước. Vẻ bề ngoài của họ rất đặc thù, với một cật một manh áo vải và các công cụ thô sơ, lạc hậu như hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, đoạn gậy gộc và một ngọn tầm vông trong tay. Những chi tiết này đã tạo ra một bức tranh về những người anh hùng vô danh “sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc”, đầy tinh thần chiến đấu và quyết tâm giữ gìn đất nước, và trở thành một tác phẩm nghệ thuật mang tính biểu tượng đối với nền văn hóa Việt Nam trong suốt nhiều thế kỷ. Những người nông dân yêu nước đã hy sinh trong trận đánh ngày 16-12-1861 tại Cần Giuộc, như hàng trăm, hàng ngàn người khác đã hy sinh trong các cuộc khởi nghĩa kháng Pháp cuối thế kỉ XIX. Tuy nhiên, bức tượng đài hào hùng Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đã làm cho họ trở nên bất tử. Họ sẽ sống mãi trong lâu đài văn chương, văn hóa của nhân dân. Nguyễn Đình Chiểu, một nhà văn và nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam, đã viết bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc để tưởng nhớ những anh hùng đã hy sinh vì đất nước. Đây là một tác phẩm nghệ thuật vô cùng đặc sắc, tạo được sức hút đặc biệt đối với người đọc. Một giá trị nghệ thuật đặc sắc khác của bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là nó thực sự trở thành khúc ai ca bi tráng biểu hiện tấm lòng ngưỡng mộ và tiếc thương của cả một dân tộc đối với những người nông dân yêu nước, những nghĩa sĩ, những anh hùng vô danh này. Nguyễn Đình Chiểu đã viết những câu văn thật xúc động khi khóc thương cho họ. Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo. Ngữ điệu câu văn đọc lên nghe như có tiếng khóc nức nở, tắc nghẽn. Lời khóc tắc nghẽn nên nó mất mát các từ, các tiếng. Đáng ra đầy đủ là phải Nước mắt khóc người anh hùng lau chẳng hết được có nghĩa là khóc và nước mắt chảy mãi, chảy hoài… Tiếc thương và ngưỡng mộ, Nguyễn Đình Chiểu muốn các nghĩa sĩ không bao giờ bị quên. Ông đã vận dụng cả tiềm thức và tâm linh thể để sáng tạo nên những hình tượng có tính siêu hình, đặng nói cái lẽ vĩnh hằng, bất tử của những người nghĩa sĩ Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh. Tình cảm của Nguyễn Đình Chiểu trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc cũng là tình cảm của cả một thời đại. Vua Tự Đức đã từng rung động với bài văn tế và cho in phổ biến nó trong các tỉnh ở Nam Bộ. Đặc biệt, bài viết này còn giúp tôn vinh những người anh hùng đã hy sinh cho đất nước và góp phần bảo vệ sự độc lập của nền văn hóa Việt Nam. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một tác phẩm bất hủ sẽ trường tồn với lịch sử Việt Nam, nhân dân Việt Nam. Những câu thơ của Mai Am công chúa cũng đã động viên và khích lệ tinh thần của nhân dân Việt Nam Bồi hồi đọc mãi bản văn ai Phách cứng văn hùng cảm động thay…… Quốc ngữ một thiên truyền mãi mãi Còn hơn xây cất mộ khô hài. Các vị hoàng tộc triều Nguyễn cũng đồng sáng tạo với Nguyễn Đình Chiểu để mang lại một tác phẩm văn học đặc sắc, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam. Tóm lại, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một tác phẩm văn học đặc sắc và bất hủ của người Việt Nam, đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của nền văn hóa Việt Nam.

nghệ thuật bài văn tế nghĩa sĩ cần giuộc